- Quá trình toàn cầu hóa ngày càng phát triển mạnh mẽ tạo nên môi trường thuận lợi cho sự di chuyển các nguồn lực, trong đó có sự đầu tư giữa các nước. Quá trình toàn cầu hóa đã tác động mạnh mẽ tới hoạt động đầu tư quốc tế như trên phương diện kĩ thuật mạng lưới viễn thông, thông tin liên lạc rất phát triển làm cho thế giới thu nhỏ lại, các nhà đầu tư tiếp cận tới những thông tin về vốn được nhiều hơn, nhanh hơn trước, do vậy, họ có thể đưa ra quyết định đầu tư hiệu quả hơn. Ví dụ: việc thay đổi lãi suất của Cục dự trữ liên bang Mỹ thì có thể tác động tới thị trường chứng khoán ở Nhật Bản, châu Âu và tác động lan tỏa ra xung quanh. Trên phương diện kinh tế, xu hướng tự do hóa đầu tư, quá trình toàn cầu hóa trong lữih vực đầu tư thể hiện rất rõ, trước kia các nhà đầu tư quốc tế khi đầu tư ra nước ngoài lo ngại nhất là chính sách quốc hữu hóa, tịch thu tài sản nhưng giờ đây các quốc gia đều cam kết không quốc hữu hóa, không trưng thu tài sản và đưa ra những ưu đãi nhằm khuyến khích đầu tư (giảm thuế, kí kết các hiệp định để phát triển hoạt động đầu tư). Trên bình diện khu vực có những hiệp định đầu tư ở các khu vực như ở các nước Đông Nam Á thì có khu vực đầu tư ASEAN (ASEAN Investment Area - Hiệp định khung về Khu vực đầu tư ASEAN (AIA)). Trên cấp độ toàn cầu, quá trình đầu tư ngày càng thuận lợi bởi những quy định quốc tế như Hiệp định Đầu tư liên quan đến thương mại - TRIMs (Trade Related Invesment Measures) của WTO.

-    Do sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học kĩ thuật. Tác động của cách mạng khoa học kĩ thuật được thể hiện trên hai phương diện: (i) Yêu cầu đầu tư cho khoa học kĩ thuật ngày càng lớn như trong lĩnh vực viễn thông, hàng không luôn có sự hợp tác quốc tế; (ii) Vòng đời công nghệ ngày càng ngắn. Ở các nước phát triển có những công nghệ cũ vẫn sử dụng được nhưng họ vẫn liên tục phát minh ra các công nghệ mới, do vậy, họ mang những công nghệ cũ ra các nước đang phát triển để tiến hành đầu tư, góp vốn bằng những công nghệ đó, cả hai bên cùng có lợi - kéo dài tuổi thọ của công nghệ cũ, có điều kiện cơ cấu lại nền kinh tế của mình, các nước đang phát triển khắc phục được khó khăn về việc thiếu công nghệ trước mắt - Mô hình phát triển “Đàn sếu bay” ở các nước châu Á cũng thể hiện cơ cấu đó.

-    Đầu tư quốc tế để tránh hàng rào bảo hộ mậu dịch xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường, bành trướng sức mạnh của các công ti xuyên quốc gia (TNCs). Đổ xuất khẩu được hàng hóa ra thị trường nước ngoài là một vấn đề khó khăn, các doanh nghiệp phải đối mặt với một loạt các hàng rào, rào cản bảo hộ (rào cản thuế quan, phi thuế quan), vậy, để tránh các khó khăn đó, các doanh nghiệp có thể xây dựng các trung tâm, căn cứ, cơ sở kinh doanh ngay trong lòng thị trường nội địa.

-    Đầu tư quốc tế là một hình thức quan trọng nhằm nâng cao uy tín quốc tế và thực hiện các mục đích chính trị - xã hội. Mỗi nước tùy theo ưu tiên của mình có thể có những chiến lược để đầu tư vào các địa bàn, quốc gia khác nhau, như trong khu vực châu Á có Nhật Bản là nước đầu tư lớn trực tiếp ra các nước trong khu vực và đây cũng là nhà cung cấp viện trợ ODA cho các nước trong khu vực châu Á lớn nhất - Nhật Bản muốn tận dụng các nguồn nguyên liệu đầu vào ổn định ở khu vực, muốn mở rộng ảnh hưởng chính trị của Nhật Bản (nhằm khắc phục hình ảnh xấu sau Chiến tranh thế giới thứ II), muốn tăng cường tiếng nói của mình trên chính trường quốc tế. Ở khu vực châu Mỹ Latinh thì Mỹ là nước có ảnh hưởng lớn, ở khu vực châu Phi thì có Pháp (bởi trước kia Pháp có nhiều nước thuộc địa ở châu lục này).

-   Đầu tư ra nước ngoài nhằm hạn chế rủi ro. Tuân theo nguyên tắc cơ bản trong kinh doanh là “không bỏ tất cả trứng vào một giỏ” - đa dạng hóa các địa bàn đầu tư thi rủi ro sẽ giảm đi, khi có biến động xảy ra ở một khu vực thì chỉ những chi nhánh ở khu vực đó bị ảnh hưởng mà thôi, còn ở các khu vực khác thì không bị ảnh hưởng. Ví dụ: khi giá dầu mỏ tăng thì sẽ gây thiệt hại cho các nước công nghiệp vì đây là các nước sử dụng nhiều dầu, nhiên liệu - nhưng lại có lợi cho các nước xuất khẩu dầu mỏ.

- Tận dụng chính sách thuế. Nhà đầu tư sẽ chọn địa bàn mà có mức thuế ưu đãi với họ, đồng thời họ sẽ tiến hành tối thiểu hóa toàn bộ số thuế trên toàn bộ tập đoàn. Ví dụ: một công ti xuyên quốc gia có rất nhiều công ti con, để giảm tối thiểu mức thuế của toàn bộ những công ti con này trên thế giới thì họ thực hiện phương thức “chuyển giá” giữa những công ti con trong công ti xuyên quốc gia - Một công ti ở một nước có thuế thu nhập doanh nghiệp là rất cao, công ti đó nhập hàng từ một công ti cũng trong cùng tập đoàn mà mức thuế thu nhập doanh nghiệp rất thấp; vậy, khi nhập lô hàng đó họ sẽ có xu hướng tăng giá hàng nhập dẫn đến lợi nhuận của công ti ở nước có thuế thu nhập cao sẽ bị giảm, còn công ti xuất khẩu hàng ở nước có thuế thu nhập thấp, khi thổi phồng giá bán của lô hàng thì lợi nhuận của công ti sẽ tăng lên. Phần lợi nhuận tăng lên của phía công ti xuất hàng so với phần lợi nhuận giảm đi ở phía công ti nhập hàng sẽ vẫn còn lãi, cộng lại mức thuế phải đóng của toàn bộ tập đoàn đó trên phạm vi thế giới sẽ thấp nhất.

Luật Minh Khuê (tổng hợp & phân tích)